Review Chi ra hai nét đặc sắc trong nghệ thuật viết sử của Ngô Sĩ Liên
Kinh Nghiệm Hướng dẫn Chi ra hai nét đặc sắc trong nghệ thuật và thẩm mỹ viết sử của Ngô Sĩ Liên Mới Nhất
Lã Tuấn Dũng đang tìm kiếm từ khóa Chi ra hai nét đặc sắc trong nghệ thuật và thẩm mỹ viết sử của Ngô Sĩ Liên được Update vào lúc : 2022-09-06 10:08:02 . Với phương châm chia sẻ Bí kíp về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi tham khảo Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.Ngô Sĩ Liên (chữ Hán: 吳士連) là một nhà sử học thời Lê sơ[1], sống ở thế kỷ 15. Ông là người đã tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn trong việc biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư – bộ quốc sử chính thống cổ nhất của Việt Nam được lưu truyền tới ngày này.[2]
Ngô Sĩ Liên
吳士連
Ảnh hưởng bởi
- Lê Văn Hưu, Tư Mã Quang
Ngô Sĩ Liên sinh ở huyện Chương Đức (nay là thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, Tp Hà Nội Thủ Đô). Mộ phần của ông hiện giờ đang táng tại thôn Ngọc Giả, thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, Tp Hà Nội Thủ Đô. [3]
Ngô Sĩ Liên tham gia khởi nghĩa Lam Sơn khá sớm, cùng với Nguyễn Nhữ Soạn (em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi) giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Lê Lợi cử đi tiếp xúc với quân nhà Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng.[4]
Tháng 3 năm 1442, triều đình tổ chức thi hội cho sĩ nhân trong nước. Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ; Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân; Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Sai soạn văn bia, dựng bia ghi tên những tiến sĩ. Bia tiến sĩ khởi đầu có từ đây.[5]
Sau khi thi đỗ, Ngô Sĩ Liên đã từng giữ những chức Đô ngự sử dưới triều Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân và Lê Thánh Tông, Lễ bộ,Thị lang, Triều liệt đại phu kiêm Văn Miếu Tư nghiệp kiểm Sử quan tu soạn dưới triều Lê Thánh Tông.[5]
Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau đó đó là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua, được hoàn tất biên soạn vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479) đời Lê Thánh Tông. Bộ sử gồm 15 quyển, phân thành hai phần:
Phần một (ngoại kỷ), gồm 5 quyển, chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời Bắc thuộc (năm 938). Phần hai (bản kỷ) gồm 10 quyển, chép từ thời Ngô Quyền dựng nước (năm 938) đến khi vua Lê Lợi lên ngôi (Lê Thái Tổ) vào năm 1428.Bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư cũng do Ngô Sĩ Liên viết, có đoạn nêu rõ:
"Trộm nghĩ: may gặp buổi thịnh trị, tự thẹn không chút báo đền, nên không tự nghĩ sức học kém cỏi, lấy hai cuốn sách của những bậc tiên hiền làm trước đây, sửa sang lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, gồm một số trong những quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư. Trong cuốn sách này, về sự việc, có việc nào trước kia quên sót thì tương hỗ update vào; về thể lệ có lệ nào chưa thật đúng thì chỉnh lý lại; về văn có nơi nào chưa ổn thì đổi thay đi; thảng hoặc có việc nào hay việc nào dở hoàn toàn có thể làm gương khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê kệch ở dưới... Tuy những lời khen chê ấy chưa tồn tại thể làm công luận cho muôn đời về sau nhưng may ra cũng hoàn toàn có thể giúp ích phần nào cho việc tra cứu tìm hiểu...".Ngày nay, Đại Việt sử ký toàn thư là ghi chép lịch sử chính thức lâu lăm nhất của nhà Lê vẫn còn nguyên vẹn trong khi Ngô Sĩ Liên luôn luôn được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam. [6] Ông được tôn kính tại ngôi làng quê hương của tớ, nơi mọi người, dưới triều của vua Tự Đức, đã dựng lên một tấm bia để ca tụng những thành tựu của nhà sử học. [6] Một số đường phố, trường học và những nơi khác ở Việt Nam được đặt tên để vinh danh Ngô Sĩ Liên.[7][8][9]
Lời vua Lê Thánh Tông dụ Đô ngự sử đài là Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ rằng:[10]
“ Ta mới coi chính vì sự, sửa mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ thần tông, nên mới tế giao vào đầu ngày xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế giao cũng không đáng theo!. Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là những ngươi theo đạo chết, mang lòng không vua. Vả lại, khi Lệ Đức hầu (Lê Nghi Dân) cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng vì hắn trổ tài phong hiến đó sao? Ưu đãi trọng lắm! Nhân Thọ không vì hắn trù hoạch nơi màn trướng đó ư? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức hầu mất nước về tay ta, những ngươi không biết vì ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu không nói ra, trong lòng những ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là bọn gian thần bán nước!". ” — Đại Việt sử ký toàn thư- Đại Việt Sử ký Toàn thư
^ Patricia M. Pelley Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past 2002 Page 151 "In the fifteenth century, Wolters explains, the Lê dynasty historian Ngô Sĩ Liên produced a new comprehensive history, which ... Lê literati such as Ngô Sĩ Liên looked back the Trần dynasty (1225–1400) and, with some trepidation, tried to reconstruct how things had gone so disastrously awry." ^ “Ngô Sĩ Liên”. vietsciences. ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục Tp Hà Nội Thủ Đô, dịch giả Viện sử học, 1998, bản điện tử, trang 550 ^ “Ngô Sĩ Liên”. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (bằng tiếng Việt Nam).Quản lý CS1: ngôn từ không rõ (link) ^ a b Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Tp Hà Nội Thủ Đô, 1993, bản điện tử, trang 404 ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ sai; không còn nội dung trong thẻ ref mang tên Tran1997 ^ “Students voice education concerns”. Vietnamnet. 15 tháng 5 năm 2007. Bản gốc tàng trữ ngày 23 tháng 3 năm 2009. ^ “Phan Thiet set for three-day festival”. Vietnamnet. 15 tháng 8 năm 2008. Bản gốc tàng trữ ngày 19 tháng 12 năm 2008. ^ “UNICEF Ambassador talks child HIV/AIDS in VN”. Vietnamnet. 6 tháng 10 năm 2005. Bản gốc tàng trữ ngày 22 tháng 6 năm 2009. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Tp Hà Nội Thủ Đô, 1993, bản điện tử, trang 433
- Ngô Sĩ Liên tại Từ điển bách khoa Việt Nam
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên
Ngô Sĩ Liên tại báo Nhân dân Lưu trữ 2007-03-06 tại Wayback Machine
Bài Thái sư Trần Thủ Độ là một bài bình phẩm nhân vật rất đặc sắc của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí toàn thư. Nhân cách cao đẹp của Trần Thủ Độ để lại bao ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của con người Việt Nam hơn 700 năm qua.
Mấy dòng đầu ghi rõ ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện: Giáp Tí (1264), năm thứ 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, ngày xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, thọ 71 tuổi. Ông được vua truy tặng ‘‘Thượng phụng Thái Sư Trung Vũ đại vương”. Thượng phụ: Cha vua; Thái sư là thầy của vua; Thượng phụ Thái sư là thương hiệu, tước hiệu cao quí tột bậc của thời phong kiến.
Đoạn văn thứ hai đánh giá phẩm chất, công lao, uy quyền của Trần Thủ Độ:
– Không có học vấn nhưng tài lược hơn người.
– Từng làm quan dưới thời Lí và được mọi người suy tôn.
– Nhờ mưu trí của Trần Thủ Độ mà người ta Trần giành được ngôi báu từ tay nhà Lí: “Thái Tông lấy được thiên hạ”.
– Uy quyền của ông “hơn hết vua” cho nên vì thế nhà nước phải nhờ cậy.
Đoạn văn thể hiện một lối viết tinh chắc, vừa nêu bật sự kiện vừa biểu lộ khen, chê, đánh giá.
Phần thứ hai nêu bốn sự việc rất điển hình để xác định và ca tụng nhân cách trung thực, cương trực và lòng chí còng cua Trần Thủ Độ. Sự kiện nào thì cũng đầy kịch tính.
Vị quan đàn hặc về việc “Trần Thủ Độ quyền hơn hết vua”…, ta cứ ngỡ người ấy sẽ bị Trần Thủ Độ báo thù và chém đầu. Nhưng ông ta đã nói rõ:
“Đúng như lời người ấy nói”, rồi ông còn thưởng tiền lụa cho anh ta vì anh ta là người trung trực, dám nói lên một sự thực, dám dũng cảm đàn hặc trước mặt vua về sự “lộng quyền” của vị Thái sư. Câu nói và hành vi của vị Thái sư thể hiện một nhân cách lớn: trung thực coi trọng sự thực, đánh giá cao công của người đàn hặc.
– Sự việc thứ hai là người quân hiệu không cho Linh Từ Quốc mẫu (vợ Trần Thủ Độ) ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm. Khi vợ khóc và nói là bị bọn quân kiệu “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giận, sai đi bắt. Anh ta chắc là mình phải chết. Nhưng sau khi nghe đến anh ta đem sự thực trả lời điều “vặn hỏi”: của tớ, Thái sư đã hết lời khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như vậy, ta còn trách gì nữa?”. Rồi ông lấy tiền vàng lụa thưởng cho những người dân quân hiệu. Sự việc đó đã cho tất cả chúng ta biết Trần Thủ Độ là một người trung thực, cương trực, giữ gìn và tôn trọng những luật lệ chung của phép nước. Cách hành xử ấy rất đáng làm gương cho những người dân quyền quý trong xã hội, cho quan trong triều.
– Sự việc thứ ba thật bất thần và thú vị. Một người xin được làm câu đương được vợ quan thái sư xin cho anh ta chắc mẩm sự chạy chọt của tớ chắc ăn trăm phần trăm. Nhưng khi nghe đến Trần Thủ Độ nói là “chỉ chặt một ngón chân” thì anh ta “kêu van xin thôi”, hồi lâu mới được tha. Tưởng xin là câu đương để có một chút ít danh phận giữa chốn đình trung mà kiếm chút lộc, ai ngờ chuốc lấy tai họa! Câu chuyện ra mắt như một màn bi hài kịch. Cách tất cả chúng ta hơn bảy thế kỉ, Trần Thủ Độ là người nhất quyết nhất chống tiêu cực: chống chạy chức, chạy quyền. Sau vụ xin làm câu đương của người nọ, “từ đấy không còn ai dám đến nhà (Quốc Mẫu) thăm riêng nữa”.
Có lẽ nhân chuyện này mà dân gian mới có lời vè:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt thì đau vô cùng!”
Hay:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt từ sau xin chừa!”.
Câu đương mà giải nghĩa là: chức quan nhỏ, lo liệu việc làm trong thôn xã, là không đúng. Câu đương: người chức dịch trong làng, giữ việc bắt bí giải tông (Chú thích của “Đại Việt sử kí toàn thư” – in lần thứ hai).
– Sự việc thứ tư đã cho tất cả chúng ta biết Trần Thủ Độ rất chí công, đặt quyền lợi triều đình, quốc gia lên trên hết. Vua Thái Tông muốn cho An Quốc làm tướng (Tể tướng), nhưng Thái sư đã nói:
– “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc,còn như cho thần là hiền như An quốc thì tránh việc cửa An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng (Tể tưởng) thì việc trong triều đình sẽ ra sao?”
Tình anh em là trọng, nhưng chuyện đại sự quốc gia còn trọng hơn. Ngu, hiền (có đức độ tài năng hơn người) là tiêu chuẩn được phó thác trọng trách của nhà nước. Câu nói của Trần Thù Độ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Phần thứ ba là lời bình tổng quát về nhân vật Trần Thủ Độ. Ý nào thì cũng đúng đắn và sâu sắc.
Thái sư là một con người tận trung với nước, tận hiếu với dân, với sự nghiệp đế vương của tớ Trần “phàm việc làm gì là không để ý”.
Công lao của ông vô cùng to lớn“giúp nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cho tới chết’’. Ông đã có tài năng mưu lược tìm ra mọi phương pháp để giành ngôi báu từ tay nhà Lí qua tay nhà Trần. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên lần thứ nhất, ông là trụ cột của Triều đình và quốc gia Đại Việt. Câu nói nổi tiếng của ông mãi mãi là khí phách của người anh hùng, hình tượng cho hào khí Đông A: “Đầu thần chưa xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo!” Lòng yêu nước, tính trung thực, cương trực, và đức chí công của ông vằng vặc như ánh sao băng, được hậu thế ngưỡng mộ.
Khi ông còn sông đã lập sinh từ. Vua Trần Thái Tông có làm bài văn về vương triều nhà Trần. Ngô Sĩ Liên đã dành những lời tốt đẹp nhất, nêu những sự kiện lịch sử hùng hồn nhất làm sống dậy công đức vô cùng to lớn của vị Thái sư. Bài phản hồi này còn có mức giá trị và ý nghĩa như một tượng đài kì vĩ.
Nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết:
“ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường,Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phươngTuy mạnh yếu có khác nhau
Song hào kiêt đời nào cũng có.”
Quả đúng là Việt Nam ta tuy nhỏ nhưng hào kiệt hiền thì đời nào cũng có, điều đó đã được lịch sử chứng minh. Trong cuộc sống có những người sinh ra chẳng ai biết đến nhưng lại có những người sinh ra khi mất đi rồi lại khắc tên mình theo dòng lịch sử mà ngàn đời sau ai cũng biết. Dù không biết mặt dù không chứng kiến nhưng nhắc đến tên họ thì ai cũng biết. Thái sư Trần Thủ Độ là một người như thế. Phải chăng ông là một người tuyệt vời, phải chăng chính vì thế Ngô Sỹ Liên đã hạ bút để viết về con người tài giỏi này qua Đại việt sử kí toàn thư.
Đại việt sử kí toàn thư hoàn thành năm 1498 dựa trên cơ sở là bộ Đại việt sử kí của Lê Văn Hưu và Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Bộ sử kí này gồm có hai phần là ngoại kỉ và bản kỉ. Phần ngoại kỉ viết về lịch sử nước ta thời Hồng Bàng đến thế kỉ 10. Phần bản kỉ viết từ thời Đinh Tiên Hoàn đến thời Hậu Lê. Ban đầu thì có 15 quyển sau đó Phạm Công Trứ viết thêm năm quyển là 20 quyển.
Bài thái sư Trần Thủ Độ được trích từ quyển năm thuộc phàn bản kỉ. Đoạn trích này khắc tạc lên một bức tượng đài về một con người không chỉ có phẩm chất của một vị tướng giỏi mà còn có đức. Tài năng của ông không còn ai không công nhận còn tích cách nhân phẩm đạo đức của ông thật sự phải đọc đoạn trích này mới thấy hết được.
Đoạn trích bắt đầu bằng những mốc thời gian lịch sử cụ thể chính xác: “Giap Tý (1264), năm thư 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, thọ 71 tuổi. Ông được vua truy tặng “ Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương” tắc giả mở đầu bằng sự kiện Trần Thủ Độ qua đời và sự truy tặng của nhà vua đối với ông. Hai chữ “thượng phụ” là cha vua, hai chữ “thái sư” có nghĩa là thầy của vua, đó là tước bậc cao nhất của thời phong kiến lúc bấy giờ. Vậy mục đích của tác giả khi mở đầu bằng sự kiện đau buồn đáng tiếc này là gì?. Phải chăng tác giả muốn nhắc đến những công lao mà Trần Thủ Độ đã đạt được trong cuộc đời của mình? Trần Thủ Độ là người có công lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi vai trò lịch sử từ thời nhà Lý sang thời nhà Trần. Không những tế ông là người có tài đầy mưu trí trong triều đình trung thành tận tụy với vua, giúp vua dựng việc lớn chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Tuy ông là người không có học vấn nhưng lại tài lược hơn người.
Tiếp đến tác giả kể về bốn sự việc khi ông còn sống để thể hiện tính cách của vị thái sư này. Qua đó ta càng thêm hiểu thêm những phẩm chất đáng quý của ông.
Thứ nhất, là việc có người hặc ông là “ Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua”. Dẫu biết rằng con người vẫn cứ dạy nhau rằng ai chê mới là bạn ai khen thì là thù, nhưng đó chỉ là lý thuyết. Ai chúng ta cũng muốn được khen còn chê thì lại khong thích, ai cũng muốn mình đẹp cả cho nên vì thế không thể chấp nhận những lời không hay về mình. Ở đây tác giả dùng từ “hặc người” có nghĩa là kẻ tội vạch tội mình. Qua hành động của người đó ta tưởng Trần Thủ Độ se lôi ra chém đầu ngay lập túc, cũng như mỗi chúng ta khi bị vạch tội thì coi người ta là kẻ thù thế nhưng Trần Thủ Độ lại chấp nhận lời vạch tội của người đã hặc tội mình. Không những thế ông còn tặng tơ lụa cho người đó. Qua đó ta thấy Trần Thủ Độ là người biết phục thiện, công minh, đọ lượng và có bản lĩnh biết nhận cái sai của mình.
Thứ hai, là việc giữa Trần Thủ Độ và người lính giữ thềm cấm. Đó là việc phu nhân của Trần Thủ Độ không được cho đi qua vùng thềm cấm. Khi vợ khóc lóc bào chúng “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giân lắm bèn sai quân đi bắt tên lính đó vào, cứ tưởng rằng tay lính đó khôn giữ nổi đầu nhưng sự việc lại không xảy ra như thế. Sau khi trả lời câu “ vặn hỏi” cua ông thì tên lính kia không những không bị mất đầu mà còn được thưởng tiền, vàng, lụa. Trần Thủ Độ khen:” Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”. Như vậy có thể thấy ở Trần Thủ Độ toát lên vẻ chí công vô tư, tôn trọng phép nước và không thiên vị tình thân.
Thứ ba là sự việc vợ của ông nhờ ông xin cho một người làm “câu đương’. Hắn cứ nghĩ vụ này được trăm phần trăm nhưng mà ông trời có mắt và con người kia cũng có mắt. Những kẻ không có tài mà đòi làm này nọ thì thật là dành chỗ của những người có học. Trần Thủ Độ sử lý rất tế nhị đó là ghi tên rồi nhưng với một yêu cầu là phải chặt một ngón chân. Tên kia sợ hãi xin thôi. Câu đương thật ra cũng chỉ là một chức quan nhỏ nhưng cũng không để những kẻ không biêt gì nhờ quen biết mà xin xỏ làm được. Việc làm ấy thể hiện sự đề cao công bằng phép nước, bài trừ tệ nạn đút lót, chạy chọt chức quan.
Thứ tư là việc vua định đem anh em Trần Thủ Độ cùng nắm chức quan trọng trong triều đình nhưng ông tán thành. Ông thẳng thán bày tỏ quan điểm của mình về việc đó. theo ông thì chỉ cần những người tài giỏi nhất làm là được chứ nhiều người thì tài chính sẽ rối ren. Theo lẽ thường anh em được nhạn chức thì phải cảm ơn mới phải nhưng ông nhất định từ chối bởi để tránh việc kéo bè kết đảng làm khó cho vua. Điều đó thể hiên Trần Thủ Độ là người không tư lợi, hết mình về việc chung của đất nước, không thiên vị anh em, chung thành và làm mọi điều tốt cho vua.
Để làm nổi bật chân dung nhân cách Trần Thủ Độ, tác giả đã có lối viết sử mê hoặc, tạo những yếu tố bất thần, kịch tính nhưng lại rất kiệm lời. Qua mỗi sự kiện, người đọc đều thấy rõ điều đó. Kết quả những sự kiện luôn ngược với Dự kiến của người đọc. Trước người hặc tội mình, ta tưởng Trần Thủ Độ sẽ nổi giận rồi trừng phạt nhưng ngược lại, thật bất thần khi ông trả lời: “Đúng như lời người ấy nói” và bất thần hơn thế nữa, thưởng tiền lụa cho những người dân ấy. Tác giả đưa người đọc đi hết từ bất thần này đến bất thần khác, bất thần sau to hơn bất thần trước.
Bằng nghệ thuật viết sử vừa chân thực vưa hấp dẫn kịch tính của tác giả đã đem đến cho ta một bức tượng vĩ đại về một vị thái sư học vấn ít nhưng tào lược thì hiếm ai bằng. Qua đoạn trích ta thấy một con người có tài, có chức có quyền nhưng không vì thế mà coi thường ngời khác, cũng không vì thế mà che đỡ cho người thân. Ông luôn hết lòng vì vua vì dân vì nước, thật xứng đáng để người đời sau nhớ đến.
I. MỞ BÀI
– Sử là tác phẩm viết về những sự kiện và nhân vật lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, không hư cấu như văn học nghệ thuật và thẩm mỹ, nhằm mục đích đáp ứng những sự kiện lịch sử của dân tộc bản địa và bày tỏ thái độ khen chê của sử gia đối với những nhân vật lịch sử để đời sau lấy đấy làm gương. Đặc điểm nổi bật của sử là tính xác thực của sự việc kiện, chiều sâu của tư tưởng đã phối hợp ngặt nghèo với trình độ nghệ thuật và thẩm mỹ cao của sự việc trình bày, diễn đạt. Sử xưa có hai thể: biên niên và kỉ sự. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian (Đại Việt sử lược – khuyết danh, Đại Việt sử kí — Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư – Ngô Sĩ Liên). Kí sự là lối viết sử theo những sự kiện hoặc theo từng sự việc của nhân vật lịch sử (Đại Việt thông sử – Lê Quý Đôn, Sử kí – Tư Mã Thiên).
– Bài Thái sư Trần Thủ Độ được trích từ sách Đại Việt sử kí toàn thư, quyển V, phần Bản kỉ, của nhóm tác giả Ngô Sĩ Liên chủ biên là một bài văn lịch sử xuất sắc. Bài viết vừa giúp người đọc làm rõ thêm phẩm chất chí công vô tư, biết khuyến khích cấp dưới giữ vững kỉ cương phép nước của Trần Thủ Độ – vị danh quan nhà Trần, vừa đã cho tất cả chúng ta biết một lối viết sử trung thành, mê hoặc của tác giả.
II. THÂN BÀI
A. NỘI DUNG
Kể về cuộc sống của Trần Thủ Độ, tác giả lựa chọn ra bốn sự kiện phản ánh bốn khía cạnh về nhân cách của vị quan nổi tiếng. Lối viết sử của tác giả mê hoặc bởi gây được yếu tố bất thần, khiến người đọc hồi hộp đợi chờ. Cả bốn sự kiện, bao giờ kết quả cũng ngược với Dự kiến của người đọc.
1. Đối với người hạch tội mình: Thông thường, người ta ghét kẻ vạch tội lỗi hoặc khuyết điểm của tớ. Nhưng Trần Thủ Độ không như vậy. Trước hết, ông nhận “Đúng như lời người ấy nói” và bất thần hơn: lấy tiền lụa thưởng cho anh ta. Đó không riêng gì có là sự việc thắng thắn, nghiêm khắc với bản thân mà còn khuyến khích người trung trực, dũng cảm dám vạch sai lầm hoặc tội lỗi của kẻ bề trên là chính mình.
2. Sự kiện người quân hiệu giữ thềm cấm cũng vậy. Người đọc hồi hộp chờ đón khi Thủ Độ giận, sai đi bắt anh ta. Kết quả là Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như vậy, ta còn trách gì nữa?”. Không những như vậy, ông còn lấy vàng lụa ban thưởng rồi cho về.
3. Sự kiện người xin chức câu đương càng thú vị. Thực ra câu đương chỉ là một chức xã quan trong thôn xóm, nếu như Quốc mẫu (vợ của Trần Thủ Độ) có xin cho những người dân nhà thì cũng chẳng có gì quá đáng lắm. Hơn nữa, Trần Thủ Độ lại gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đó. Hành động này khiến người đọc nghĩ ông đồng ý. Khi xét duyệt ông lại còn gọi người kia đến. Tiếng cười bật ra ở nghịch cảnh người ấy mừng chạy đến, tin chắc, mình nhất định sẽ được giữ chức câu đương. Nhưng kết quả thì ngược lại, qua một câu nói của Trần Thủ Độ mà không còn ai hoàn toàn có thể đoán trước được: “Người vì có Công chúa xin cho được làm chức, không ví như người câu đương khác được”. Đến đây, người đọc vẫn tin rằng, người nhà đất của Công chúa không riêng gì có được giữ chức câu đương mà chắc còn được ân sủng hơn. Nào ngờ Trần Thủ Độ hạ một câu: “phải chặt một ngón chân để phân biệt…”. Và kết quả là tên gọi kia phải van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Việc làm của Trần Thủ Độ làm cho từ đó không còn ai dám đến nhà thăm riêng nữa.
4. Thủ Độ cũng chống lại việc đưa anh em, họ hàng vào nắm chức vụ quan trọng trong triều đình, kéo bè kết đảng. Cách so sánh của ông, giữa mình và người anh thật bất thần nhưng cũng thật khẳng khái, thể hiện sự chí công vô tư, tất cả vì quyền lợi của quốc gia, khiến vua cũng phải tâm phục nghe theo.
B. NGHỆ THUẬT VIẾT SỬ
1. Lối viết sử của tác giả rất mê hoặc, gây được yếu tố bất thần khiến người đọc hồi hộp chờ đón. Cả bốn sự kiện trên có kết quả luôn ngược với Dự kiến của người đọc. Mở nút mỗi sự kiện chỉ bằng hai câu: một câu kể lại lời nói của Trần Thủ Độ, một câu kể về hành vi của ông. Sự kiện người giữ thềm cấm cũng vậy. Người đọc hồi hộp chờ đón khi Trần Thủ Độ giận, sai đi bắt anh ta. Kết quả là, Trần Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như vậy, ta còn trách gì nữa?”. Không những như vậy, ông còn lấy vàng lụa ban thường rồi cho về.
2. Lối viết sử như vậy là rất kiệm lời, không miêu tả, phân tích tâm lí mà tính cách nhân vật vẫn thể hiện sâu sắc và thái độ khen chê của tác giả cũng thể hiện rõ ràng. Hơn nữa, người viết hoàn toàn ngợi ca, khâm phục Trần Thủ Độ nhưng không còn một câu ca tụng nào. Người ta gọi lối viết sử như vậy là theo bút pháp Xuân Thu.
III. KẾT BÀI
– Qua bốn sự kiện và bốn cách ứng xử trong cuộcđời Trần Thủ Độ, tác giả Đại Việt sử kí toàn thư đã khắc họa sinh động chân dung một nhân cách chí công vô tư, cao thượng, bao dung, không để tình riêng lấn át, luôn giữ kỉ cương phép nước và khuyến khích cấp dưới làm như mình, đồng thời cũng không kém phần thông minh, hóm hỉnh.
– Đại Việt sử kí toàn thư nói chung trích đọan Thái sư Trần Thủ Độ nói riêng quả đã đạt tới vẻ đẹp của lối văn sử. Nó giúp người đọc càng tự hào về con người Việt Nam, dân tộc bản địa Việt Nam và thêm quý trọng những di sản văn hóa do cha ông ta để lại.
Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Chi ra hai nét đặc sắc trong nghệ thuật và thẩm mỹ viết sử của Ngô Sĩ Liên
Post a Comment