Mẹo Nội dung triết học Phật giáo ấn Độ cổ đại
Mẹo Hướng dẫn Nội dung triết học Phật giáo ấn Độ cổ đại Mới Nhất
Lê Khánh Hà Vi đang tìm kiếm từ khóa Nội dung triết học Phật giáo ấn Độ cổ đại được Cập Nhật vào lúc : 2022-08-28 09:14:03 . Với phương châm chia sẻ Thủ Thuật về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.Tư tưởng hình thành nền triết học Ấn Độ cổ đại
A/ Dẫn Nhập:
Quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại xét về mặt lịch sử in như dòng sông cuộn chảy ,nhưng được tách ra làm hai nhánh lớn thời cổ đại với khuynh hướng và mục tiêu rất khác nhau .Nếu triết học phương tây cố gắn lý giải bằng tư duy lô-rig,thì triết học phương đông nhấn mạnh thế giới nội tâm con người ,triết học phương đông đặt nền móng đầu tiên cho nghành khoa học ,xã hội ,nhân sinh vì vậy trong những nền văn minh phương đông ,tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh của triết học Ấn độ ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sống tinh thần,văn hóa Việt Nam do đó việc nghiên cứu và phân tích những tinh hoa của nền văn hóa Ấn độ có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu và phân tích những nền văn hóa của quả đât
Ấn Độ là một bán đảo lớn , là một trong cái nôi của nền văn minh cổ đại của nền văn minh phương đông, rất thực tiển và ảnh hưởng sâu sắc đến những quác gia,đặt biệt là những quấc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam .Vì vậy việc nghiên cứu và phân tích những đặc điểm cơ bản hình thành triết học Ấn Độ được xem như thể một trong những môn học trọng yếu tương hỗ cho tất cả chúng ta hiểu hơn về đất nước cũng như xã hội Ấn Độ thời bấy giờ .Mặt dù trước đây những bậc tiền bối đi trước đã có nghiên cứu và phân tích về đề tài này , ngày này chúng em là những tăng ni sinh trẻ vì muốn đóng gớp chút ý kiến của tớ về vấn đề này nên em quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu .
B/ Nội Dung:
I/ Vị trí địa lý ,khí hậu, kinh tế tài chính chính trị ,
Theo người Ấn Độ ,dãy Hymalya nghĩa là nơi"cư trú của tuyết".Từ nơi xa xưa nơi đây đã từng là chốn tu hành khổ luyện của những đạo sĩ,và theo trí tưởng tượng của người Ấn Hymalya là nơi cư trú của thần linh.
Vùng đồng bằng Ấn Hằng với dòng sông Indus chảy về phía tây, qua những vùng di tích lịch sử cổ nổi tiếng của nền văn minh sông Ấn .Sông hằng tuy bắt nguồn từ sông Ấn nhưng chảy theo chiều ngược laị về phía đông đỗ ra vịnh Bengale , nói một cách hình ảnh sông Ấn và sông Hằng như hai cô gái kiều diễm ,vốn là hai chị em sinh đôi, nhưng ngay từ khi sinh ra đã ngoảnh mặt lại với nhau mãi mãi chẳng chịu nhìn nhau.Sông Hằng là một dòng sông linh thiên của người Ấn .Truyền thuyết rằng sông Hằng chảy từ trên trời xuống để rửa sạch tội cho những người dân trần gian ,nếu ta đến thành phố này để được tắm làn nước mát hay được chết bên dòng sông Hằng đó là một diễm phúc lớn của cuộc sống , dẫn chứng là đến ngày này vẫn còn nhiều cuộc hành hương về tắm ở dòng sông Hằng .Ngoài ra còn dòng sông Brahmaputra cùng với sông Ấn và sông Hằng ,ngày đêm đem phù sa về tưới cho một vùng đồng bằng rộng lớn
Ở miền bắc Ấn Độ thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp .nhìn chung điều kiện thiên nhiên Ấn Độ rất phức tạp ,địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú có vùng khí hậu nóng ẩm mưa nhiều , có vùng quanh năm tuyết phủ ,lại sở hữu những vùng khô khan nóng bức
Từ xưa Ấn Độ là khu vực sống của nhiều dân tộc bản địa ,với những ngôn từ và trình độ khác nhau. Trước khi người Aryan xâm nhập Ấn Độ thì tại đây có nhiều sắc tộc chung sống . Đặc biệt người ta nhận định rằng Dravidian là dân bản địa xưa nhất và nổi bậc nhất trong những dân tộc bản địa ở đất Ấn là gia chủ của nền văn minh Indus, người Dravidian sống theo chính sách mẫu hệ , họ qui tụ thành thôn sớm theo tổ chức gia tộc , rồi tiến dần lên chính sách bộ tộc , toàn thể bộ tộc theo một tôn giáo duy nhất .họ thờ vị nữ thần sáng tạo đất đai và dân tộc bản địa ,người Dravidian đã tồn tại qua thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt thì Aryan xâm nhập tây bắc Ấn Độ rồi dần làm chủ bán đảo này .Tuy về sau người Dravidian bị người Aryan đồng hóa hay bắt làm nô lệ , người Aryan đã chịu ảnh hưởng rất lớn về văn minh kỷ thuật trồng trọt của người Dravidian nền văn minh sớm nhất của những dân tộc bản địa Ấn Độ cổ .Đặc biệt thành phố được phân thành hai khu vực là khu ở trên cao khu ở dưới thấp khác lạ nhau về của cải và nhà tại .Điều đó chứng tỏ thời kỳ này Ấn Độ cổ đại đã xuất hiện sự phân chia kẻ giàu người nghèo rõ rệt. có lẽ rằng xã hội Ấn Độ thời đó là xã hội chiếm hữu nô lệ mới hình thành.
Từ cuối thiên kỷ thứ hai(trước công nguyên) trở lại, nền văn hóa Ấn Độ khởi đầu suy tàn và nguyên nhân sụp đổ của nó trước đây theo ý kiến chính thống giáo ,người ta lý giải là vì sự xâm nhập tàn phá của người Aryan có trình độ văn hóa thấp kém hơn so với trình độ người Dravidian lại nghiên về nguyên nhân nội tại ,đã phá hủy đột ngột nền văn háo đó .Tiếp theo là nền văn hóa sông Ấn là nền văn hóa của người Aryan ,trong lịch sử Ấn Độ người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ vedan thời kỳ sử thi .Đây là thời kỳ chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Aryan,trên lưu vực sông hằng . Người Aryan là một trong những giống dân xa xưa từ phía bắc Trung Á di tản xuống Ấn Độ người Aryan hồi đó đang sống dưới chính sách công xã thị tộc mạt kỳ .họ nói theo một ngữ hệ chung là ngữ hệ Ấn -Âu ,da màu sáng vóc người cao,mũi thẳng .Lúc đầu người Aryan mới xâm nhập vùng pundjab ở tây bắc Ấn Độ sau đó họ tiến dần lên phía đông làm chủ lưu vực sông hằng xuống phía nam là cao nguyên Dekkan ,đẩy lùi những dân tộc bản địa người Aryan xuống dưới ,lập nên đất nước Aryavarta của tớ . họ vốn là giống dân du mục quen cởi ngựa biết sản xuất và sử dụng công cụ bằng sắt nên đại bộ phận thổ dân Ấn Độ điều bị chinh phục và trở thành nô lệ . Đến khoảng chừng thế kỷ thứ X trước công nguyên , người Aryan lập ra tôn giáo Rig-Veda,do một phần ảnh hưởng của những dân tộc bản địa bản địa
Sau một thời gian chung sống lâu dài ,người Aryan và người Dravidian đã đồng hóa với nhau.Đặc biệt do tiếp thu kỷ thuật ,văn minh của người Dravidian .Do chiếm hữu được những vùng đất đai phì nhiêu và thuận lợi ,người Aryan khởi đầu chuyển từ chăn nuôi du mục sang đời sống nông nghiệp định cư
Tổ chức xã hội của người A.ryan lấy mái ấm gia đình và gia tộc làm cơ bản đứng đầu mỗi bộ tộc Aryan là thủ lĩnh chính trị ,quân sự được gọi là tiểu vương.những vương công vỏ sĩ được tôn sùng là đẳng cấp cao nhất trong những buổi tế lễ tôn giáo ,chính vua chúa đứng ra tổ chức cử hành ,còn đẳng cấp Balamon chỉ đóng vai trò phụ .Nhưng dần khi trận chiến tranh chấm hết hòa bình lập lại ,người ta cần phát triển sản xuất, mở mang trí thức và sinh hoạt tinh thần ,đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và những hình thức tế lễ tôn giáo ,tôn giáo thời đó đã giúp con người cầu nguyện với thượng đế thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa ,tai qua nạn khỏi để phát triển canh nông,khi đó đẳng cấp Balamon lại được trọng vọng được xem là đẳng cấp cao nhất.Với quyền uy được thần thánh hóa ,họ có nhiệm vụchăn dắt phần hồn của con người nắm toàn bộ đời sống tinh thần xã hội ,truyền đạt trí thức ,chủ trì những buổi tế lễ tôn giáo
Đạo Balamon nhận định rằng chính sách đẳng cấp đó là sự việc an bày của tự nhiên đã có sẵn . Hơn thế nữa việc phân chia dân cư ra thành bốn đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại lại được pháp luật qui định nhờ vào bộ luật MANU.Cho rằng ưu tú nhất trong loài người là Brahmana.Brahmana sinh ra sớm nhất có hiểu biết về kinh Veda nên nên phải thống trị toàn thế giới .việc phân chia giai cấp đụng chạm đến quyền lợi của nông dân, thương nhân ,thợ thủ công ,nó còn ngăn trở sản xuất của xã hội .một làn sóng phản đối sự thống trị của Balamon,trong nghành tư tưởng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật vô thần ,chống chủ nghĩa duy tâm là tôn giáo ,ra mắt quyết liệt đòi bình đẳng xã hội .Do tính chất của chính sách nô lệ Ấn Độ là tính chất bóc lột và sự phân tán nô lệ trong những mái ấm gia đình đã ảnh hưởng không tốt đến cuộc đấu tranh,giữa giai cấp nô lệ chống lại sự áp bức của giai cấp chủ nô.những hình thức đấu tranh của nô lệ Ấn Độ thường mang tính chất chất chất tự phát như bỏ trốn đập phá những công cụ sản suất v.v.Nhưng dù sao quan hệ chiếm hữu nô lệ và chính sách công xã nông thôn đã thật sự chi phối cơ cấu tổ chức xã hội Ấn Độ cổ đại
II/ văn hóa xã hội ,khoa học kỷ thật
Sự phát triển tư tư tưởng triết học ở Ấn độ luôn gắn sát với kết quả của khoa học những thành tựu khoa học tự nhiên đạt được ở Ấn độ không riêng gì có thúc đẩy phát triển trình độ tư duy của con người ,mày mò bí mật của thế giới xung quanh phục vụ cho đời sống sản xuất vật chất mà còn là một cơ sở hình thành nên thế giới quan triết học duy vật chất phát và tư tưởng biện chứng tự phát
Ngay từ Veda thiên văn học ở Ấn độ đã khởi đầu nẩy nở Ấn độ đã lý giải được những hiện tượng kỳ lạ nhật thực nguyệt thực ...
Về toán học người Ấn độ cổ đại đã phát minh ra số thập phân ,biết được những quy định về quan hệ giữa cạnh và đường huyền của một tam giác vuông ,biết giải phương trình bậc hai ,bậc ba và xây dựng được những quy tắc của lượng giác một cách sơ đẳng .
Nền y học của Ấn độ cũng luôn có thể có từ rất sớm ,ngay trong kinh Veda người ta đã tìm thấy nhiều tên cây làm thuốc chữa bệnh về nội khoa, ngoại khoa...
Văn học nghệ thuật và thẩm mỹ : Với những bộ sử thi lớn như Ramayana Mahabharata cùng với bộ luật cổ MANU...đó là niềm tự hào nền văn hóa Ấn độ .Đặt biệt đáng để ý quan tâm là sáng tác ra tiếng Sankrit vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.Trong thời kỳ ấy những tri thức về ngôn từ giúp rất nhiều cho việc phát triển nhận thức và nó được xem là một phần của triết học
Nghệ thuật kiến trúc :Người Ấn độ không để lại những khu công trình xây dựng kiến trúc đồ sộ như kim tự tháp Ai Cập ,Vạn lý trường thành ở Trung Quốc Nhưng nó đã để lại một phong cách kiến trúc độc đáo ,tinh tế đặc biệt nhất là lối xây dựng chùa ,tháp phật theo kiểu hình tháp .Phong cách đó sau này còn có ảnh hưởng sâu sắc lối kiến trúc của hầu hết những nước Đông Nam Á như : Thái Lan, Miến Điện ,Campuchia...
Tất cả những đặc điểm lịch sử ,kinh tế tài chính, chính trị ,xã hội cùng với sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa và những thành tựu đạt được trong khoa học tự nhiên của Ấn Độ cổ đại là nhũng tiền đề thực tiển và lý luận làm nảy sinh những tư tưởng triết học với những hình thức phong phú và đa dạng
III/ Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại:
Tư tưởng triết học ấn độ cổ đại được hình thành từ thế giới quan thần thoại ,tín ngưỡng tôn giáo ,lý giải vũ trụ bằng hiện tượng kỳ lạ những vị thần có tính chất tự nhiên ,có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của quả đât như totemismi và tín ngưỡng vật linh amimisme đến những tư tưởng triết lý trừu tượng ,lý giải nguyên tắc của vũ trụ ,giải tích bản chất đời sống tâm linh của con người ,dần dần hình thành nên những khối mạng lưới hệ thống triết học đa dạng
Ngay từ thiên niên kỷ II (trước công nguyên ),người ta đã thấy mầm mống của những tư tưởng duy vật mộc mạc và những quan niệm duy tâm,tôn giáo như thánh kinh Veda ,kinh upanishad Brahamnism,Hinduism.sau đó là sự ra đời của những triết học tôn giáo như jaina,lokagata,chavakas,buddhism.
1/Tư tưởng triết học Ấn Độ trong thời kỳ Veda:
Thời kỳ này cùng với sự hình thành chính sách chiếm hữu nô lệ,chính sách phân biệt đẳng cấp . Đặt biệt vào thế kỷ thứ X (trước công nguyên)đạo Rig - Veda một thứ tôn giáo có tính chất đa thần ,dựa trên tư tưởng triết lý thánh kinh Veda ra đời .Sau đó là đạo Balamon nhờ vào triết lý thánh kinh Upanishad và nền tảng xã hội là chính sách đẳng cấp ,thờ một thần là tinh thần tối cao,toàn năng tuyệt đối sáng tạo ra tất cả và chi phối tất cả . Thần Brahma những hình thức ban đầu của đạo Hindu ,đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế giới quan triết học ở Ấn Độ cổ đại a1/Rig-Veda:
Đây là bộ kinh cổ nhất của người Ấn Độ ,được soạn thảo vào thế kỷ thứ VII-V (trước công nguyên).Nội dung của kinh Veda là những chân nguyên do thượng đế mặc khải ,tuyệt đối nó có tính tiên thiên siêu thời gian .người ta chỉ nhận được chân lý ấy bằng trực giác ,bằng quá trình tu luyện ,chiêm nghiệm nội tâm,kinh này sẽ không phải do ai sáng tác ,nó là sự việc thâu lượm của tất cả với nhau,thần linh ,con người ,ác quỹ ,ứng với ba cõi ,thiên giới ,trần thế và địa ngục .Thần cai trị hạ giới là thần lửa, thần quản lý không khí là thần gió ,thần quản lý thiên giới là mặt trời .Ba vị thần được xem là ba ngôi tối linh trong kinh Veda
b/Sama Veda:
Gọi là ca vịnh Veda ,ca tụng thần thánh ,dùng để ca chầu khi hành lễ
c/ Bộ yajur-Veda:
Gọi là "Tế tự Veda" là bộ kinh tập hợp những công thức cúng bái dùng trong lễ nghi,tế hiến .Tế tự Veda là kinh chuyên dành riêng cho những "Hành lễ sư".
d/ Bộ Atharva-Veda:
Là những lời khấn vái mang tính chất chất chất bùa chú ,phù phiếm ,ma thuật nhằm mục đích đem lại những điều tốt lành cho bản thân mình và người thân trong gia đình,gây tai họa cho quân địch .
Trên cơ sở nguồn gốc triết lý của thánh kinh Veda,đặc biệt là bộ Rig-Veda,Veda giáo đã hình thành ,đây là hình thức tôn giáo cổ nhất Ấn Độ .Với những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên ẩn dấu những điều bí mật và kỳ diệu,người Ấn Độ cổ đã sáng tạo ra một thế giới thần linh tương ứng ,để lý giải những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên ấy. Người Ấn Độ cổ đại tin và lý giải rằng ,trong vũ trụ này đồng thời tồn tại ba lực lượng có liên quan với nhau: Thần linh, con người, và ác quỹ,ứng với ba cõi vũ trụ bát ngát :Thiên giới ,trần thế ,địa ngục họ phân tích và lý giải những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên qua hình tượng của thế giới thần linh phong phú đa dạng hiện hữu khắp mọi nơi mợi thời .Chia nhau chi phối mọi sinh hoạt của vũ trụ ,theo sự điều khiển của nguyên tắc Rita(Rita nghĩa đen là chân xác ,thích hợp là trật tự vận hành của vũ trụ vạn vật)."Toàn thể vũ trụ được thành lập trên nguyên tắc Rita và vận hành ở trong đó "
Các thần linh trong Veda ngụ khắp ba cõi :Đất hay hạ giới ,không trung
hay cõi không khí,trên trời hay tiên giới .Hình ảnh mà người ta nhận định rằng hiện thân của Thượng đế toàn năng đó là trời ,thiên giới ,không số lượng giới hạn, vô thủy vô chung ,tiềm ẩn toàn thể vũ trụ
Ngưới Ấn Độ cổ xưa không riêng gì có lý giải những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên và đời sống xã hội bằng hình tượng những vị thần ,mà còn giải thích những nghành đạo đức ,trên nền tảng tín ngưỡng song song với quy định khắc khe trên mặt nhân luân .Thần linh dưới con mắt người Ấn Độ cổ là nhũng bậc thiện sinh,siêu việt và mang tính chất chất tự nhiên .Tuy vậy những vị thần cũng mang nặng tính người .Thần cũng luôn có thể có vợ có chồng .Thần cũng hay chọc ghẹo cả những người dân vợ của những vị thần khác .khi nhân gian dâng rựu ngon thì những vị thần cũng uống cho kỳ say ,cũng luôn có thể có những vị thần thích khoe khoan,lại cũng luôn có thể có những vị thần khiếm khuyết về đạo đức v.v .Nhung nhìn chung đối với người Aryan ,thần linh bao giờ cũng tượng trưng cho việc tốt lành
2/ Tư tưởng triết học trong thánh kinh Upanishad
Đây là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Veda.Nó là những lời bình giải tôn giáo triết học cổ Ấn Độ ,về ý nghĩa những nghi lễ ,ý nghĩa triết lý sâu xa của những bài kinh. Theo triết lý duy tâm tôn giáo của Upanishad ,lý giải căn nguyên của thế giới bằng nguyên tắc "tinh thần vô trụ tối cao,"tuyệt đối bất diệt là cơ sở cho những học thuyết triết học duy tâm sau này, nó đóng vai trò là cơ sở lý luận cho đạo Balamon cũng như đạo hindu ở Ấn Độ cổ đại. Triết học triết lý Veda và Upanishad cùng với đạo Bà la môn đã trở thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của Ấn độ cổ .Uy thế của mạnh mẽ và tự tin đến mức ,tư tưởng triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng chính thống ở Ấn độ cổ
3/Triết học trong những cuốn sử thi hay anh hùng ca cổ Ấn Độ Ramayana và Mahabharata:
Đây là những tư tưởng triết học duy vật cũng khá được thể hiện rõ hơn, và đây cũng là một bước phát triển của Ấn Độ cổ.
a/ Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Ramayana
Trong Ramayana quan niệm về thế giới qua hình tượng những vị thần mang dấu tích ,như một chiếc nền cho mọi hành vi ,đời sống con người .Tư tưởng triết học thời này toát lên quan điểm duy vật ngây thơ nhận định rằng con người ta sinh ra từ đất và chết trở về đất vĩnh viễn trường tồn .Nhưng tư tưởng đa phần trong Ramayana đó là ý nghĩa triết lý -đạo đức-nhân sinh ,về con người về xã hội về điều thiện điều ác của người Ấn độ cổ xưa .Con người ta không phải là một chiếc gì tuyệt đối đơn điệu ,mà luôn luôn tiềm ẩn những xích míc ,có phần cao đại có điều thiện ,nhưng cũng luôn có thể có phần thấp hèn có điều ác luôn giằng co nhau .
b/Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Mahabharata
Mahabharata là tác phẩm sử thi đồ sộ được xem là cuốn sách ''Bách khoa toàn thư ''không riêng gì có của nền văn hóa Ấn độ mà của tất cả thế giới .Với bộ sử thi Ramayana cũng như Mahabharata không riêng gì có là một gia tài văn học dân gian ,khiến mọi người dân quê sau một ngày thao tác mệt nhọc ,hay sau mỗi vụ mùa vẫn dám bỏ ra một món tiền lớn trong gia tài nhỏ bé của tớ để trả cho những nghệ nhân ,mỗi đêm đọc tụng bình giản sử thi cho họ nghe ,hoàn toàn có thể kéo dãn từ ba đến sáu tháng liền ,mà nó còn tiềm ẩn phản ánh trong đó những huyền thoại ,sự tích thần linh ,những cách ngôn của đời sống hàm chứa những tư tưởng triết học ,suy tư về vũ trụ ,về tâm linh về số phận con người.
4/Sự suất hiện mầm mống những tư tưởng triết học duy vật ,và cuộc đấu tranh của nó với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo :
Ngay từ quá trình phát triển đầu tiên của triết học Ấn Độ đã xuất hiện mầm móng của tư tưởng triết học duy vật,vô thần ,mộc mạc ngay thơ ,đấu tranh chống lại những quan điểm triết học duy tâm,tôn giáo chống lại đạo Balamon .phê phán giáo lý tín điều cái gọi là "Tinh thần sáng tạo tối cao"và ngay trong kinh Veda tối cổ ,ngoài tư tưởng về "Tinh thần sáng tạo tối cao" ngoài những bài nói về lễ nghi, hiến tế, chúc tụng công đức thần linh.Người ta còn phát hiện những quan niệm triết học ,lý giải những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên qua những khái niệm những phạm trù như triết học Rita ,hay khái niệm thực thể thực tại không khí...Tuy còn tính chất rất là mộc mạc, ngay thơ,nhưng những tư tưởng duy vật ,vô thần đã có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển sau này của triết học Ấn Độ.
III/ Sự phát triển của triết học Ấn Độ trong thời kỳ cổ xưa hay thời kỳ Phật Giáo ,Ba La Mon:
Đây là thời kỳ nền kinh tế tài chính xã hội Ấn Độ đã phát triển cao .Trong nghành nông nghiệp thủ công nghiệp ,thương mại và khoa học đã có bước phát triển mới .Những thành quả của nền sản xuất xã hội và khoa học thực sự là cơ sở quan trọng góp thêm phần vào mở mang tri thức ,tái tạo thế giới ,phục vụ cho quyền lợi con người .Hơn thế nữa chúng còn là một tiền đề cho quá trình phát triển ,kĩ năng tư duy trừu tượng ,hình thành nên những khối mạng lưới hệ thống triết học ở Ấn Độ thời kỳ này .nhưng chính sách nô lệ ở Ấn Độ vẫn bị bóp nghẹt bởi sự phân chia đẳng cấp ,trong nghành tinh thần ,thế giới quan thần thoại ,tính ngưỡng tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh Veda,kinh Upanishad và đạo Balamon được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ,ngụ trị ở Ấn Độ cổ đại những trào lưu triết học thời kỳ này với những khuynh hướng đa dạng .Đặc biệt là phủ nhận uy thế của kinh Veda ,chống giáo lý duy tâm hoan đường của đạo Balamon bởi Đạo Phật ,đạo jaina, Lokayata ...Vì thế đã hình thành hai trường phái chính :
1/ phái triết học chính thống
Thừa nhận uy quyền của thánh kinh Veda,bảo vệ triết lý duy tâm.Vì sao được gọi là chính thống ? Vì tư tưởng này được nhà nước và xã hội thời bấy giờ ủng hộ ,bảo vệ không biến thành tẩy chay ngăn cấm nên gọi là chính thống
Triết học chính thống có sáu trường phái
- Trường phái triết học Samkhya
- Trường phái triết học Nyaya
- Trường phái triết học Vaisesika
- Trường phhai1 triết học Mimansa
- Môn phái Yoga
- Học thuyết triết học Vedanta
2/ phái không chính thống (bác bỏ uy thế và tính chất đáng tin của Veda ) Được xuất hiện vào thế kỷ thứ VIII (trước công nguyên) người sáng lập là Mahaliva ,một dòng họ nổi tiếng của người Aryan ,đây là trường phái tiêu biểu cho đạo Balamon khắc khổ ,công khai minh bạch chống lại tư tưởng chính thống giáo thực hiện dòng tu khắc khổ ,họ nhận định rằng không còn đấng Brahma ,mà người ta nhận định rằng vũ trụ này còn có hai thế giới :
+Thế giới linh hồn(linh hồn )
+Thế giới hiện tượng kỳ lạ (thể xác )3
3/Triết học Phật Giáo :
Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn ở Ấn Độ cổ đại ,xuất hiện vào thế kỷ thứ VI (trước công nguyên),người sáng lập là Phật tổ ,họ là Gautama,con vua suddhodama, trị vì bộ tộc Sakya ,sinh ngày 8 tháng 4 khoảng chừng năm 563 (trước công nguyên).Phật giáo đã đã nhanh chống phổ biến và trở thành một quốc giáo ở Ấn Độ .Trải qua những thăng trầm lịch sử Phật Giáo đã trở thành một tôn giáo thế giới ,ảnh hưởng mạnh mẽ và tự tin tới đời sống văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc bản địa phương đông.Phật giáo được xem là sự việc "triết lý thâm trầm về vũ trụ và con người "với mục tiêu giải phóng con người mọi đau khổ bằng chính môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường đức độ của con người ,phật giáo đã nhanh chống chiếm hữu được tính cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.Nó trở thành hình tượng của lòng từ bi,bác ái trong truyền thống đạo đức của dân tộc bản địa Á châu.Triết học Phật giáo khi sáng lập cho tới lúc hoàn hảo nhất là một quá trình theo ba quá trình :
- Phật tổ hay Thích Ca Mâu Ni (Sakiyamuni)
- Long Thọ bồ tát (Nagarjuna)
- Thế Thân bồ tát (Vasubandhu)
Tuy nhiên xét dưới góc nhìn triết học ,là một khối mạng lưới hệ thống gồm có ba bộ phận có liên quan ngặt nghèo với nhau, để đạt mục tiêu duy nhất là giải thoát nằm trong ba bộ phận :
+ Bản thể luận
+ Nhận thức luận
+ Giải thoát luận
Triết học Phật giáo là một bước phát triển cao hơn tư duy triết học của những trường phái khác ở Ấn Độ cổ đại .Được thể hiện rõ nhất qua thuyết VÔ NGÃ mà Đức phật dạy:
Vô ngã là một trong những học thuyết quan trọng mà Đức Phật là một sáng kiến đầu tiên , bàn vế bản chất sâu xa của con người .Thẳng thắng chống lại chính thống giáo .Ở đây Đức Phật dạy :bản chất sâu xa của con người đó đó là vô ngã ,bắt nguồn từ hai phạm trù rất cơ bản tồn tại và không tồn tại ,hai mặt này thống nhất nhau tác động của chúng có hình thái cấu trúc vế mình ,sắc này nó tồn tại với không,sắc này là sư phối hợp của những yếu tố vật chất, đất,nước ,gió ,lửa, tất cả những yếu tố vật chất tạo thành một hình thể hiện tượng kỳ lạ là không.Tất cả những yếu tố vật chất tạo ra một con người hay một sư vật nó biến hóa vô thường trong vòng vô tận .Atman là bản chất sâu xa của con người ,con người in như yếu tố của vật chất,những yếu tố này luôn thay đổi trong vòng vô thường của vũ trụ này .Xét về mặt thời gian nó rất ngắn ngủi,so với cái vô tận của vũ trụ nó tồn tại và mất đi in như những làn sóng ,nó xuất hiện với nhiều yếu tố ,yếu tố đó luôn thay đổi .
Theo quan niệm thuyết vô thường của phật giáo không còn gì tồn tại vĩnh viễn trong vô cùng của thế giới này ,luôn có sự vận động liên tục ,khi ta hiểu được bản chất sâu xa của con người ,hiểu được thế giới này là thế giới vô thường .Lúc này ta hiểu triết lý vô thường thời điểm hiện nay con người sẽ ung dung tự tại ,nên con người hiểu được vấn đề sinh tử của tớ ,hiểu nó đồng ý nó xem nó như lẽ tự nhiên,không chấp trước ,người chấp trước là ngưới luôn có bản ngã ,người không chấp trước là người không còn bản ngã .
Theo quan niệm của triết học phật giáo nó là kết quả của quá trình luân hồi ,con người quan niệm sai về nhân quả nên cứ luân hồi ,về triết học phương tây gọi là bánh xe của đời sống ,con người luôn xuất phát từ bản ngã nên bị lôi cuốn vào vòng này ,càng lằm tưởng thoát ra nên đây đó đó là nghiệp ,trên góc nhìn triết học con người đi từ sai lằm này đến sai lằm khác chúng nối tiếp nhau tạo thành chuỗi nhân quả .Theo quan niệm của Phật giáo con người nên phải dứt bỏ những tri kiến sai lằm,sau này nói sanh tử là niết bàn ,con người thoát ra khỏi sẽ có một đời sống an nhàn,hòa đồng với trạng thái vốn có của con người.
C/ Kết Luận
Trên đây cho ta thấy Ấn Độ có nền triết học lâu lăm ,có nội dung tư tưởng và hình thức phong phú nói lên tính chất đa dạng xã hội Ấn Độ .Đây là một nền triết học rất là phong phú và đa dạng ,đề cập đến nhiều nghành rất khác nhau của triết học như bản thể luận , nhận thức luân,về chính trị xã hội ...Dù dưới những hình thức muôn màu muôn vẽ ,hầu như những trường phái triết học Ấn Độ cổ đều cố gắn lý giải về vạn vật ,về đời sống tâm linh con người ,tìm căn nguyên của khổ ,vạch ra con phố giải thoát tâm hồn con người khỏi những nổi khổ đó .
Triết học Ấn Độ luôn ra mắt cuộc đấu tranh quyết liệt giữa thế giới duy vật vô thần với chủ nghĩa duy tâm ,tôn giáo ,giữa tinh thần sáng sủa với thái độ bi quan yếm thế ,giữa nhất nguyên và nhị nguyên .Cuộc đấu tranh ấy nóng bức đến mức không một tác phẩm triết học duy tâm nào ,tôn một tư tưởng giáo lý tôn giáo nào không dành chỗ để phê phán những quan điểm của chủ nghĩa duy vật và tư tưởng vô thần tiến bộ thời bấy giờ .Đó thực sự là một trong những động lực thúc đẩy triết học Ấn Độ phát triển .
Cùng với nền văn hóa rực rỡ và phong phú của tớ ,triết học Ấn Độ cổ đại là một trong những khối mạng lưới hệ thống tư tưởng đặc sắc và vô cùng quý giá đựng nhân dân những nước phương đông nói chung và Việt Nam nói riêng ,học tập thừa kế và phát triển
Tài liệu tham khảo .
- Lược sử Phật giáo Ấn Độ
HT.Thích Thanh Kiểm
- Đại cương lịch sử triết học phương đông cổ đại
Doãn Chính-Trương Văn Chung
Nguyễn Thế Nghĩa-Vũ Tình
- MỤC LỤC-
A/ DẪN NHẬP
B/ NỘI DUNG
I/ Vị trí địa lý, khí hậu, kinh tế tài chính chính trị
II/Văn hóa xã hội, khoa học kỷ thuật
III/ Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
1/ Tư tưởng triết học Ấn Độ trong thời kỳ Veda
a/ Rig- Veda
b/ Sama- Veda
c/ Bộ yajur-Veda
d/ Bộ Atharva- Veda
2/ Tư tưởng triết học trong thánh kinh Upanishad
3/ Triết học trong những cuốn sử thi hay anh hùng ca cổ Ấn Độ Ramayana và Mahapharata
a/ Tư tưởng triết học trong bộ sử thi Ramayana
b/ Tư tưởng triết học trong bộ sử th Mahapharata i
4/ Sự xuất hiện mầm móng những tư tưởng triết học duy vật và cuộc đấu tranh của nó với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo
IV/ Sự phát triển của triết học Ấn Độ trong thời kỳ cổ xưa ha thời kỳ phật giáo, hay Bà La Môn
1/ Phái triết học chính thống
2/ Phái không chính thống
3/ Triết học phật giáo
C/KẾT LUẬN
Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Nội dung triết học Phật giáo ấn Độ cổ đại
Post a Comment